I. ĐÔNG Y LUẬN TRỊ BỆNH GIÃN TĨNH MẠCH THỪNG TINH
-
Chứng hàn ngưng can mạch:
Chứng hậu: bìu dái sa trướng phát lạnh, co rút từ bụng dưới xuống tới tinh hoàn, tăng lên khi đứng, giảm khi nằm nghỉ, vùng thắt lưng lạnh đau, sợ lạnh, tay chân lạnh, lưỡi nhạt rêu trắng, mạch huyền tế.
Phân tích: cơ thể vốn dương hư, lại ngoại cảm hàn thấp phạm quyết âm can mạch, làm âm nang (bìu dái) sa trướng phát lạnh, co rút từ bụng dưới xuống tinh hoàn; hàn tà xâm phạm, thương tổn dương khí, cho nên vùng thắt lưng lạnh đau, sợ lạnh, tay chân lạnh; đứng lâu huyết dồn xuống mà triệu chứng nặng hơn; lưỡi nhạt rêu trắng, mạch huyền tế là tượng hàn ngưng can mạch.
Pháp trị cơ bản: ôn tán hàn thấp, hoạt huyết thông mạch.
Phương thang: Đương Quy Tứ Nghịch thang gia giảm. Tế Tân, Quế Chi ôn kinh tán hàn; Đương Quy, Đan Sâm, Xích Thược, Hồng Hoa hoạt huyết thông mạch; Ô Dược, Tiểu Hồi Hương lý khí để hoạt huyết; Thông Thảo lợi thấp; Đại Táo, Chích Cam Thảo bổ tỳ khí mà điều hòa chư dược. Các vị phối hợp đạt được công hiệu ôn tán hàn thấp, hoạt huyết thông mạch.
-
Chứng huyết ứ lạc trở
Chứng hậu: giãn tĩnh mạch thừng tinh, tĩnh mạch nổi rõ, uốn khúc thành cuộn thành búi, thường luôn trướng đau, làm việc mệt nhọc thì nặng lên, nghỉ ngơi thời giảm, lưỡi có ứ ban, mạch tế sáp.
Phân tích: ứ huyết lạc trở, cho nên tĩnh mạch nổi rõ, uốn khúc thành búi cuộn; khí huyết ứ trệ, bất thông tắc thống, cho nên thời luôn thấy căng đau; làm việc mệt nhọc tắc hao khí, nên bệnh nặng hơn mà nghỉ ngơi thì giảm nhẹ; lưỡi có ứ huyết, mạch tế sáp là biểu hiện của huyết ứ lạc trở.
Pháp trị cơ bản: hoạt huyết thông lạc.
Phương thang: Đào hồng tứ vật thang hợp Thất tiếu tán gia giảm. Trong phương có Thục Địa, Đương Quy, Bạch Thược, Xuyên Khung dưỡng huyết hoạt huyết; Đào Nhân, Hồng Hoa, Bồ Hoàng, Ngũ Linh Chi, Diên Hồ Sách, Xuyên Ngưu Tất hoạt huyết khử ứ, thông lạc chỉ thống; Uất Kim, Ô Dược, Xuyên Khung hành khí hoạt huyết chỉ thống. Toàn bài có công hiệu hoạt huyết thông lạc.
- Chứng thấp nhiệt hiệp ứ
Chứng hậu: giãn tĩnh mạch thừng tinh hình dạng như con giun, thừng tinh dày lên, bìu dái sa trướng, ẩm ướt, hâm hấp nóng, ngứa ngáy, kèm người mệt mỏi, bụng trướng đầy, miệng nhầy nhớt, cảm giác khô miệng đắng miệng, tiểu tiện đỏ sẻn, rêu lưỡi vàng nhày, mạch huyền hoạt.
Phân tích: thấp nhiệt nội sinh, theo kinh mà đi xuống, gây nên bìu dái sa trướng, ẩm ướt, hâm hấp nóng mà ngứa ngáy; thấp nhiệt hạ chú tinh lạc (lạc mạch tinh hoàn), tích tụ lại mà gây nên giãn tĩnh mạch thừng tinh như hình dạng con giun; thấp nhiệt nội đình, cho nên người mệt mỏi, bụng đầy trướng, miệng nhầy nhớt mà khô đắng; thấp tà tính hướng xuống, cho nên tiểu tiện đỏ sẻn; rêu lưỡi vàng nhầy, mạch huyền hoạt là biểu hiện của thấp nhiệt.
Pháp trị cơ bản: thanh nhiệt lợi thấp thông lạc.
Phương thang: Phòng Kỷ Trạch Lan thang gia giảm. Trong phương có Phòng Kỷ, Trạch Lan, Tỳ Giải, Thổ Phục Linh, Bồ Công Anh thanh nhiệt lợi thấp tiêu thũng; Sài Hồ, Thanh Bì, Lệ Chi Hạch hành khí chỉ thống; Xích Thược, Đan Bì, Đan Sâm, Ngưu Tất hoạt huyết tán ứ thông lạc. Toàn phương hợp trị thanh nhiệt lợi thấp thông lạc.
II.Điều trị khác:
Đối với bệnh nhân kèm theo viêm thừng tinh, dùng thêm thuốc Thanh Phu Cao (thành phần chính là Thanh Đại và Đại Hoàng…) đắp bên ngoài, mỗi ngày thay một lần.
III.Tiên lượng và di chứng:
Bệnh này trải qua điều trị bằng dùng thuốc hoặc phẫu thuật đại đa số tiên lượng khá tốt, di chứng nặng sẽ dẫn tới vô sinh và teo tinh hoàn.
IV.Dự phòng và chăm sóc:
- Tránh lao động quá sức hay làm nặng, phòng ngừa tăng áp lực ổ bụng để tránh bệnh nặng hơn.
- Kiêng ăn đồ cay nóng, kích thích, duy trì đại tiện thông lợi.
- Sinh hoạt tình dục cần điều độ, không mặt đồ quá chật, tắm rửa nên dùng vòi sen, không nên ngâm nước.
- Nếu điều trị bằng thuốc qua một năm mà không hiệu quả, nên kịp thời điều trị bằng phẫu thuật.
V.Kinh nghiệm lâm sàng:
Bệnh này đa phần là thực chứng. Hoặc bởi hàn ngưng can mạch, hoặc bởi huyết ứ lạc trở, hoặc bởi thấp nhiệt hiệp ứ.
Nguyên tắc điều trị: Giãn tĩnh mạch thừng tinh độ nhẹ không có triệu chứng thì không cần phải điều trị. Không điều trị bằng phẫu thuật khi: giãn tĩnh mạch thừng tinh độ nhẹ hoặc kèm theo thần kinh suy nhược thì có thể nâng đỡ bìu dái, đắp lạnh,… Điều trị phẫu thuật: giãn tĩnh mạch thừng tinh độ nặng, số lượng tinh trùng 3 lần liên tiếp dưới 20 triệu con hoặc có teo tinh hoàn; lúc nằm nghỉ giãn tĩnh mạch có thể tiêu mất; có thể tiến hành phẫu thuật thắt tĩnh mạch thừng tinh.
- Dựa vào biểu hiện lâm sàng và đặc trưng bệnh lý của giãn tĩnh mạch thừng tinh, có thể quy vào phạm trù chứng “Thiên trụy”, “Cân lựu” trong đông y. Nếu kèm theo vô sinh là biểu hiện khá điển hình của chứng ứ trệ, tương đương trong sách 《Tố Vấn – chương Bình nhân khí tượng luận là chứng “Sán hà, thiếu phúc thống”. Vị trí bệnh này tại Can, can khí uất kết là một trong những cơ chế bệnh sinh cơ bản của bệnh này. Thận tinh suy hư là gốc, huyết mạch ứ trở là ngọn, chúng liên hệ tương hỗ nhân quả với nhau, mà dẫn đến vô sinh.
- Phép trị quan trọng là bổ ích can thận, hoạt huyết hóa ứ làm chủ, phụ trợ thêm thuốc ích khí thăng đề. Nghiên cứu dược lý đã chứng minh thuốc hoạt huyết hóa ứ có thể cải thiện tình trạng thiếu máu thiếu oxi mô, gia tăng số lượng mao mạch bị xẹp được giãn nở, giảm tính thấm mao mạch, gia tăng trương lực mạch máu và cải thiện vi tuần hoàn, thúc đẩy sửa chữa và khôi phục các mô bị tổn hại do thiếu máu thiếu oxi.
- Ở một số bệnh nhân giãn tĩnh mạch thừng tinh có thể lựa chọn phương pháp phẫu thuật kết hợp điều trị bằng thuốc đông y, hiệu quả rất cao.
VI. BỆNH ÁN TIÊU BIỂU NHỮNG BỆNH NHÂN GIÃN TĨNH MẠCH THỪNG TINH
1. Bệnh án 1: Bệnh nhân họ Sầm, 32 tuổi, tới khám ngày 2/9/1980.
5 năm trước do dùng quá sức bưng bê đồ nặng mà cảm thấy vùng bìu dái bên trái căng trướng hơi đau, cảm giác sa xuống, đụng nắn thì đau nhức, sau đó mỗi khi làm việc quá sức thì càng đau nhiều, nghỉ ngơi thì giảm nhẹ, từng điều trị nhiều lần mà không hiệu quả nên chuyển sang điều trị khoa tôi.
Khám: chất lưỡi đỏ tím, rìa lưỡi có điểm ứ huyết, mạch huyền vi sáp. Thừng tinh bên trái sưng trướng, lúc đứng có thể sờ thấy tĩnh mạch giãn như con giun, sắc da không đổi.
Bệnh chứng: do lao lực tổn thương ứ trệ, ngưng trở cân mạch. Phép trị: lý khí tán kết, hoạt huyết thông lạc.
Phương thang: Thanh Bì 15g, Xuyên Luyện Tử 12g, Nga Truật 18g, Tam Lăng 18g, Địa Miết Trùng 12g, Lệ Chi Hạch 18g, Quất Bì Hạch 12g, Đài Ô Dược 12g, Chích Cam Thảo 3g, sắc uống.
Sau khi uống hết 14 thang, âm nang sưng trướng giảm đi một nửa, làm việc mệt cũng không cảm giác đau căng. Tiếp tục uống thêm 10 thang nữa thì bệnh khỏi.
Bàn luận: cơ chế giãn tĩnh mạch thừng tinh dẫn tới vô sinh vẫn chưa được hiểu rõ ràng. Đại khái ứ huyết trở tắc kinh lạc, huyết cũ không đi, huyết mới khó mà tới được, tinh hoàn mất đi sự dinh dưỡng mà vô sinh. Dùng lượng thuốc phá khí tán kết khá lớn để “thôi trần xuất tân” (thay cũ đổi mới), khơi thông kinh mạch, tạo môi trường tốt cho tinh hoàn phát triển do đó mà đạt được hiệu quả.
2. Bệnh án 2: Bệnh nhân họ Đường, 42 tuổi, tới khám ngày 04/11/1988.
1 năm trước, bệnh nhân xuất hiện tinh hoàn sa trướng đau nhức, đau lan lên bụng dưới, đứng hay đi lại thì càng nặng hơn, nằm nghỉ thì giảm, khoa ngoại tiết niệu bệnh viện tôi chẩn đoán là giãn tĩnh mạch thừng tinh trái. Lúc khám bệnh nhân tinh thần suy sụp, đầu váng mắt hoa, ăn kém, mệt mỏi, chất lưỡi tím tối, mạch hư mà sáp. Biện chứng là khí hư hiệp ứ. Phép trị là ích khí hoạt huyết.
Phương thang: Chích Hoàng Kỳ 30g, Phục Linh 15g, Bạch Truật 15g, Cam Thảo 5g, Diên Hồ Sách 10g, Sài Hồ 10g, Ô Dược 15g, Địa Miết Trùng 10g, Thạch Xương Bồ 15g, Ngưu Tất 15g, Uất Kim 10g.
Sau khi uống liên tục 20 thang, các triệu chứng giảm nhiều, tiếp tục uống 15 thang nữa, tinh hoàn sa trướng đau hết hẳn, người khỏe mạnh.
Bàn luận: thuốc bổ khí có tác dụng tư dưỡng, có thể thúc đẩy huyết dịch tuần hoàn, tăng cường chức năng miễn dịch của cơ thể; thuốc hoạt huyết khử ứ có tác dụng cải thiện tuần hoàn huyết dịch, thúc đẩy sửa chữa khôi phục các mô bị tổn hại do thiếu máu thiếu oxi; rất nhiều thuốc bổ ích có tác dụng cải thiện khá tốt cho mật độ tinh trùng thấp, tỉ lệ sống thấp, di động kém, dị dạng nhiều, hơn nữa có thể cải thiện tần suất quan hệ vợ chồng.
3. Bệnh án 3: bệnh nhân họ Tiêu, 29 tuổi, đến khám ngày 29/07/1987.
Kết hôn đã 5 năm nhưng chưa có con. Hai vợ chồng đi khám tư, người vợ không phát hiện bất thường, người chồng thì khám thấy giãn tĩnh mạch thừng tinh. Hiện vùng sinh dục căng trướng đau nhức, đầu váng mắt hoa, lưng gối mỏi yếu, hay thở dài, mạch tượng tế huyền, lưỡi đỏ rêu trắng. Khám khoa ngoại tiết niệu bệnh viện tôi, được chẩn đoán là giãn tĩnh mạch thừng tinh. Làm tinh dịch đồ thấy số lượng tinh trùng giảm, tỉ lệ tinh trùng sống 30%. Chứng này thuộc thận tinh bất túc, can khí không điều đạt. Điều trị bằng bài thuốc tư thủy thanh can ẩm gia giảm.
Phương thang: Sinh Địa 15g, Thục Địa 15g, Sinh Sơn Dược 30g, Sơn Thù Du 15g, Phấn Đan Bì 10g, Vân Phục Linh 12g, Trạch Tả 10g, Toàn Đương Quy 10g, Hàng Bạch Thược 10g, Thố Sài Hồ 8g, Sinh Sơn Chi 8g, Tiểu Hồi Hương 10g, Xuyên Luyện Tử 12g, Đài Ô Dược 10g, Quất Hạch 12g. Uống hơn 30 thang, các triệu chứng biến mất, tinh dịch đồ bình thường. Người vợ sau 12 tháng đã hạ sinh được em bé.
Bàn luận: Ngoại trừ thận tinh bất túc, thì can khí uất kết cũng là một trong những cơ chế bệnh quan trọng. Các thầy thuốc trên lâm sàng thường sẽ không bỏ qua bổ thận sinh tinh, nhưng phải luôn nhớ rằng gốc bệnh tại bộ vị can kinh. Dựa vào lâm sàng mà nhận định, phải phụ trợ thêm thuốc thanh can, hay sơ can, hay nhu can, hay dưỡng can, không phải chỉ có một loại vậy.
4. Bệnh án 4: bệnh nhân họ Vương, 31 tuổi, đến khám ngày 06/06/1982.
Bệnh nhân đau lưng nhiều năm, sau kết hôn 6 năm vẫn chưa có con, lúc tiểu thấy có giọt trắng ở niệu đạo, đi khám tư được chẩn đoán là “Giãn tĩnh mạch thừng tinh trái”, điều trị không thấy có hiệu quả.
Triệu chứng: đau mỏi vùng thắt lưng mông, đứng hoặc xoay trở thời đau tăng, bìu dái bên trái lơi lỏng không thu lên, sờ ấn đau; kèm theo chóng mặt, mất ngủ, người mệt mỏi vô lực, sắc mặt vàng úa, ăn kém, rêu lưỡi dày nhầy hơi vàng, mạch nhu vô lực. Chứng này thuộc thận hư thấp nhiệt ứ trở. Nên dùng phép bổ thận trục ứ, thanh nhiệt lợi thấp.
Phương thang: Đỗ Trọng 10g, Câu Kỷ Tử 10g, Ý Dĩ Nhân 10g, Trạch Tả 10g, Táo Nhân 10g, Hoàng Bá 10g, Hoắc Hương 15g, Trúc Diệp 10g, Đan Sâm 10g.
Uống 2 thang, các triệu chứng giảm nhẹ. Tùy chứng gia giảm, uống tổng cộng hơn 30 thang thì bệnh khỏi, sau đó người vợ sinh được một bé gái.
Bàn luận: Thận là tạng, mà tạng thì tàng mà không tiết, nên dễ hư. Bàng Quang là phủ, mà phủ thì tiết mà không tàng, nên dễ thực. Thấp nhiệt tà gây bệnh, bàng quang đứng ra thụ tà. Thận và bàng quang có quan hệ biểu lý, do đó thận tức là bàng quang, bàng quang tức là thận vậy. Bệnh nhân này thuộc chứng thận hư thấp nhiệt, bổ cho cái hư thì lại trợ cho thấp, thanh lợi thấp nhiệt thì lại lo khắc phạt thận khí, do đó cần phải quan tâm cả hai, nếu vậy thì bằng cách nào? Dùng Đỗ Trọng tính hơi ôn mà bổ thận khí, mạnh lưng gối, khu phong thấp; phụ trợ thêm Câu Kỷ Tử bình bổ tinh khí trong thận, bình hòa can dương, Táo Nhân vị ngọt chua tính bình, bổ can sinh tân, ninh tâm an thần; Hoắc Hương, Ý Dĩ kiện vận trung tiêu, đoạn nguồn sinh thấp; Hoàng Bá nhập thận kinh, Đan Sâm nhập huyết phận cùng tiêu trừ ứ nhiệt; dùng Trạch Tả và Trúc Nhự vị nhạt mà tính thấm lợi dẫn dư tà theo đường tiểu mà bài xuất. Binh pháp gọi đó là phép “Vi tam khuyết nhất” (Bao vây 3 mặt mà để 1 đường lui).
5. Bệnh án 5: Bệnh nhân họ Trương, 28 tuổi.
Bệnh nhân gần 1 tháng nay cảm thấy vùng bìu dái sa trướng phát lạnh, tinh hoàn bên trái đau nhức, khi đứng hoặc đi lại lâu thì càng nặng hơn.
Khám thấy: lúc đứng tại chỗ thấy da vùng bìu lỏng lẻo, giãn tĩnh mạch thừng tinh trái, nằm nghỉ thì tiêu mất, có thể sờ thấy tĩnh mạch giãn như hình dạng con giun, bìu dái mát lạnh, mạch huyền tế, lưỡi nhạt rêu trắng mỏng, miệng không khát, tiểu trong dài. Chứng này thuộc quyết âm hàn ngưng khí trệ. Phép trị: ôn tán hàn thấp, dưỡng huyết thông lạc.
Phương thang: Đương Quy 10g, Quế Chi 10g, Xích Thược 10g, Đan Sâm 10g, Quất Hạch 10g, Ô Dược 10g, Tế Tân 6g, Thông Thảo 6g, Hồng Hoa 6g, Hồi Hương 6g, Đại Táo 6g.
Uống liên tục 10 thang, các triệu chứng đều hoàn toàn khỏi, sau này hỏi thăm lại không thấy tái phát.
Bàn luận: bìu dái và tinh hoàn vị trí tại dưới cùng của hạ tiêu, là nơi kinh quyết âm can đi qua, âm hàn dễ dàng xâm tập, khí huyết do đó mà bị tắc trở, cân mạch do đó mà giãn nở uốn khúc, tinh hoàn bị chèn ép nơi chật hẹp đó, khổ sở vô cùng. Kịp thời dùng Đương Quy Tứ Nghịch thang gia giảm tùy theo chứng trạng, hiệu quả vô cùng. Nắm được pháp tắc mà có thể dụng cổ phương để cứu người. Cho nên dùng phương Ma Hoàng Phụ Tử Tế Tân thang cũng phù hợp vậy.
VII. Nghiên cứu hiện đại
-
Thuốc gây tắc mạch (gây xơ hóa) dạng bọt có thể làm giảm đau nhức do giãn tĩnh mạch thừng tinh.
Tiến sĩ White viện giám sát Robert trường đại học Yale báo cáo dùng cuộn dây nội mạch (coil) kết hợp với thuốc tiêm Sodium Tetradecyl Sulfate gây tắc mạch điều trị 10 bệnh nhân thanh thiếu niên và 6 bệnh nhân tuổi trưởng thành. Trong đó đã phẫu thuật điều trị tái phát 5 trường hợp, vận động đau nhức 10 trường hợp, nam vô sinh 1 trường hợp. Kết quả cho thấy, 15 trong 16 bệnh nhân khỏi hẳn, 1 bệnh nhân không có hiệu quả. Tiến sĩ White chỉ ra, trước đây không thể làm thuyên tắc nhiều tĩnh mạch nhỏ bàng hệ đồng thời với tĩnh mạch thừng tinh trong, khiến cho máu từ các tĩnh mạch bàng hệ nhỏ này chảy vào tĩnh mạch thừng tinh trong, do đó mà gây ra giãn tĩnh mạch tái phát, phẫu thuật thất bại; nhưng Sodium Tetradecyl Sulfate dạng bọt đồng thời làm thuyên tắc xơ hóa tĩnh mạch, cũng có thể đem các tiểu tĩnh mạch bàng hệ này gây tắc nghẽn, mà nhờ đó giải quyết được nan đề bệnh tái phát.
-
Nhóm của Dương Phương chọn dùng phương pháp thắt cao tĩnh mạch tinh trong qua nội soi ổ bụng để điều trị
Phẫu thuật thắt vị trí cao của tĩnh mạch tinh trong 11 trường hợp, trong đó bên trái 10 trường hợp (trong đó 1 trường hợp phẫu thuật mổ hở nửa năm sau thì tái phát lại), 2 bên có 1 trường hợp, phẫu thuật đều thành công, không có biến chứng, thời gian phẫu thuật trung bình khoảng 40 phút, sau phẫu thuật thời gian nằm viện bình quân 3 ngày, thăm khám lại trong khoảng từ 6 – 24 tháng sau mổ, bình quân là 10 tháng, không tái phát, không bị teo tinh hoàn.
Điều trị bằng cách thắt vị trí cao của tĩnh mạch tinh trong qua nội soi ổ bụng ngoài lợi ích như đau ít, tổn thương ít, hồi phục nhanh, còn có các ưu điểm sau: <1> Phương pháp đơn giản tiện lợi, tác dụng phóng đại qua nội soi làm cho giải phẫu cục bộ có thể thấy được rõ ràng mà phân biệt chính xác, còn có thể chỉ bằng một đường vào mà xử lý được cả bệnh biến 2 bên. <2> Tính an toàn cao, phẫu thuật là thắt ở vị trí trên cao, không cần phải tách cơ treo bìu (cremaster muscle) ra, tránh tổn thương tĩnh mạch tinh ngoài, động tĩnh mạch ống dẫn tinh và ống dẫn tinh; có lợi cho sự hình thành và hồi phục hệ tuần hoàn nhánh sau hậu phẫu. Có tài liệu báo cáo do bởi động mạch ống dẫn tinh, động mạch cơ treo bìu và động mạch tinh hoàn có tồn tại tuần hoàn nhánh bên, nên thắt đồng thời động mạch tinh trong sẽ không tạo thành teo tinh hoàn. Hơn nữa nên cố gắng không để thắt nhầm động mạch tinh trong. <3> Tần suất tái phát thấp, do qua nội soi ổ bụng tiến hành phẫu thuật thắt tĩnh mạch tinh trong ở nơi phía trên của lỗ bẹn sâu mới thực sự là vị trí cao, các nhánh khó bỏ sót, thắt được triệt để, không dễ tái phát. Đối với bệnh nhân tái phát sau mổ hở, thì phương pháp này là cách cứu vãn tiện lợi và có hiệu quả nhất.
-
Kim Bảo Phương trung tây y học kết hợp điều trị giãn tĩnh mạch thừng tinh.
Bệnh án thứ nhất: bệnh nhân họ Hoàng 36 tuổi, nhập viện ngày 21/11/1986. Bệnh nhân đã cưới 9 năm vẫn chưa có con. Sinh hoạt vợ chồng bình thường, người vợ khám phụ khoa với kinh nguyệt bình thường, người chồng có tinh dịch đồ: số lượng tinh trùng 5 triệu – 30 triệu con/ml, tỉ lệ di động là 30 – 60%, di động kém. Liên tục sử dụng thuốc đông y trong 2 năm, nhiều lần tái khám nhưng tinh dịch đồ vẫn chưa thấy tiến triển. Hỏi ngược lại bệnh sử, bìu dái bên trái có lúc cảm thấy sa trướng nhẹ, khám: giãn tĩnh mạch thừng tinh trái (độ 2 – 3). Lại tiếp tục uống thuốc đông y khoảng nửa năm, bệnh tình vẫn chưa thấy cải thiện rõ. Ngày 24/11 cùng năm tiến hành phẫu thuật thắt vị trí cao của tĩnh mạch tinh trái. Sau mổ 2 tháng tinh dịch đồ khôi phục bình thường, sau 3 tháng người vợ mất kinh, sau 5 tháng xét nghiệm nước tiểu thấy có thai, khi đủ tháng thì hạ sinh thành công.
Bệnh án thứ hai: bệnh nhân họ Vương, 31 tuổi, khám lần đầu ngày 27/5/1983. Bệnh nhân kết hôn 2 năm chưa có con. Sinh hoạt vợ chồng bình thường, người vợ kinh nguyệt và khám phụ khoa đều bình thường. Trước đây có tiền sử hay thủ dâm, hồi bé từng bị bệnh quai bị. Thường ngày dễ bị cảm mạo, lưng đau mỏi, miệng khô, ngũ tâm phiền nhiệt, về chiều mặt hay phát nóng, chảy máu chân răng, bụng trướng, tiểu gấp, đêm ngủ mơ nhiều, mạch tế sác, lưỡi hơi đỏ, rìa lưỡi có ứ ban, rêu trắng mỏng hơi nhầy. Khám: giãn tĩnh mạch thừng tinh trái mức độ trung bình; xét nghiệm dịch tiền liệt tuyến: thể Lecithin 40%, tế bào mủ (++++); tinh dịch đồ: số lượng tinh trùng 12 triệu con/ml, độ di động 25%. Đây là do âm hư hỏa vượng, thấp nhiệt uẩn kết, hạ chú can thận. Đầu tiên uống thuốc tư âm giáng hỏa, thanh nhiệt lợi thấp 2 tháng, kiểm tra lại dịch tiền liệt tuyến đã trở về bình thường. Sau đó tiếp tục dùng thuốc sơ can lý khí, hoạt huyết hóa ứ, bổ thận ích tinh, thanh nhiệt lợi thấp 1,5 năm, chứng âm hư hỏa vượng chưa thấy cải thiện, giãn tĩnh mạch thừng tinh chưa thấy cải biến, tinh dịch đồ vẫn chưa thấy hồi phục. Bệnh nhân không đồng ý phẫu thuật, muốn tiếp tục sử dụng thuốc đông y, thì ngày 5/1/1985 bắt đầu dùng thuốc bổ thận hoạt huyết để điều trị. Phương thang: Sinh Địa 10g, Thục Địa 10g, Sa Uyển Tử 10g, Ích Mẫu Thảo 10g, Chế Thủ Ô 12g, Đương Quy 10g, Xuyên Tục Đoạn 10g, Nữ Trinh Tử 10g, Tử Hà Xa 10g, Câu Kỷ Tử 10g, Thái Tử Sâm 12g, Địa Cốt Bì 10g, Đào Nhân 10g.
Liên tục dùng 70 thang trên, đến ngày 29/3 cùng năm kiểm tra tinh dịch đồ: số lượng tinh trùng 120 triệu con/ml, tỉ lệ di động 85%, sức di động rất tốt. Người vợ đã mang thai và đủ tháng thì sinh được 1 bé gái.
Kết luận:
Giãn tĩnh mạch thừng tinh là đám rối tĩnh mạch thừng tinh giãn nở, ngoằn ngoèo, kéo dài. Y học hiện đại cho rằng có liên quan tới giải phẫu, sinh lý và khối u đè ép. Đông y học cho rằng là do các chứng bệnh gây ra ứ huyết trở trệ. Chủ yếu là hàn ngưng can mạch, hoặc huyết ứ lạc trở, hoặc thấp nhiệt hiệp ứ. Phép trị chủ yếu là hoạt huyết thông lạc làm chủ. Bệnh tình nghiêm trọng có thể chọn dùng điều trị phẫu thuật. Một bộ phận bệnh nhân sẽ xuất hiện vô sinh, teo tinh hoàn.